Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
198031

Chuyển đổi số Quốc gia là gì? Cơ hội và thách thức của Việt Nam

Ngày 26/03/2024 22:34:22

Ngoại trừ các hồ sơ công việc thuộc bí mật nhà nước. 100% chế độ báo cáo, báo cao định kỳ, thống kê thuộc sự điều hành của Chính phủ được kết nối, tích hợp và chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo chính phủ

z4968301029111_b215e6e799c7ce33bf44f1e61ac20643.jpg
 Ngày 03/06/2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Văn bản này xác định tầm nhìn, nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp cho Chuyển đổi số Quốc gia.

Vậy Chuyển đổi số quốc gia là gì?

Chuyển đổi số Quốc gia là sự ứng dụng công nghệ số vào toàn bộ hoạt động của quốc gia. Từ xây dựng Chính phủ số đến phát triển kinh tế số, xã hội số,… Chuyển đổi số quốc gia hướng tới thay đổi quy trình, cách thức hoạt động của toàn bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Thay đổi nhận thức và hành vi của người dân theo hướng chuyển đổi số.

Mục tiêu của Chuyển đổi số quốc gia là gì?

Chuyển đổi số quốc gia là chương trình phát triển trọng điểm. Mục tiêu xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số. Đồng thời hình thành và phát triển các doanh nghiệp số, có năng lực toàn cầu hóa.

Mục tiêu chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025

Mục tiêu trong giai đoạn này là 80% dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4. Các dịch vụ được cung cấp trên nhiều phương tiện khác nhau, gồm cả các thiết bị di động. Có 90% hồ sơ các công việc cấp tỉnh, 80% hồ sơ thuộc cấp huyện, 60% hồ sơ thuộc cấp xã được giải quyết trên môi trường internet. Ngoại trừ các hồ sơ công việc thuộc bí mật nhà nước. 100% chế độ báo cáo, báo cao định kỳ, thống kê thuộc sự điều hành của Chính phủ được kết nối, tích hợp và chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo chính phủ.

 100% cơ sở dữ liệu quốc gia bao gồm CSDL về dân cư, đất đai, tài chính, bảo hiểm, doanh nghiệp tham gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Các CSDL này được hoàn thành kết nối và chia sẻ trên toàn quốc.

Từng bước mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời. Khai báo một lần, sử dụng trọn đời. 50% các hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước thực hiện qua môi trường số, hệ thống thông tin quản lý.

Việt Nam thuộc 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Nền kinh tế số chiếm 20% trên tổng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong các ngành đạt ít nhất 10%. Năng suất lao động số mỗi năm đạt ít nhất 7%.

Việt Nam cũng thuộc 50 nước đi đầu về CNTT (IDI). Việt Nam thuộc 50 nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất (GCI). Việt Nam thuộc 35 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII).

Hệ thống mạng, cáp quang phủ rộng trên 100% xã, 80% hộ gia đình cả nước. Toàn quốc được phổ cập mạng 4G, 5G, điện thoại thông minh. Tỷ lệ thanh toán điện tử trong dân chúng đạt trên 50%. Nước ta cũng thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về chỉ số an toàn, an ninh mạng (GCI)

 

Mục tiêu chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030

100% các dịch vụ công trực tuyến đều ở mức độ 4. Được cung cấp trên nhiều phương tiện, bao gồm thiết bị di động. 100% hồ sơ công việc cấp bộ, tỉnh, 90% hồ sơ thuộc cấp huyện, 70% hồ sơ thuộc cấp xã sẽ được giải quyết trên môi trường mạng. Trừ những hồ sơ thuộc bí mật nhà nước. Hình thành nền tảng dữ liệu số cho các ngành kinh tế trọng điểm. Thực hiện dựa trên dữ liệu của cơ quan nhà nước và hạ tầng IoT.

Các thủ tục hành chính giảm 30%. Mở kho dữ liệu số cho các tổ chức, doanh nghiệp. Các hoạt động sáng tạo tăng 30%. 70% các hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước thực hiện qua môi trường số và hệ thống thông tin quản lý.

Việt Nam thuộc 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Nền kinh tế số chiếm 30% trên tổng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong các ngành đạt ít nhất 20%. Năng suất lao động số mỗi năm đạt ít nhất 8%.

Việt Nam cũng thuộc 30 nước đi đầu về CNTT (IDI). Việt Nam thuộc 30 nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất (GCI). Việt Nam thuộc 30 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII).

Hệ thống mạng, cáp quang được phổ cập rộng khắp. Toàn quốc được phổ cập mạng 5G, điện thoại thông minh. Tỷ lệ thanh toán điện tử trong dân chúng đạt trên 80%. Nước ta cũng thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số an toàn, an ninh mạng (GCI), đây cũng chính là mục tiêu của chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2030 của Việt Nam./.

Sưu tầm & biên tập

CCVH – XH

Lê Văn Sơn

 

 

Chuyển đổi số Quốc gia là gì? Cơ hội và thách thức của Việt Nam

Đăng lúc: 26/03/2024 22:34:22 (GMT+7)

Ngoại trừ các hồ sơ công việc thuộc bí mật nhà nước. 100% chế độ báo cáo, báo cao định kỳ, thống kê thuộc sự điều hành của Chính phủ được kết nối, tích hợp và chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo chính phủ

z4968301029111_b215e6e799c7ce33bf44f1e61ac20643.jpg
 Ngày 03/06/2020, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Văn bản này xác định tầm nhìn, nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp cho Chuyển đổi số Quốc gia.

Vậy Chuyển đổi số quốc gia là gì?

Chuyển đổi số Quốc gia là sự ứng dụng công nghệ số vào toàn bộ hoạt động của quốc gia. Từ xây dựng Chính phủ số đến phát triển kinh tế số, xã hội số,… Chuyển đổi số quốc gia hướng tới thay đổi quy trình, cách thức hoạt động của toàn bộ các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Thay đổi nhận thức và hành vi của người dân theo hướng chuyển đổi số.

Mục tiêu của Chuyển đổi số quốc gia là gì?

Chuyển đổi số quốc gia là chương trình phát triển trọng điểm. Mục tiêu xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số. Đồng thời hình thành và phát triển các doanh nghiệp số, có năng lực toàn cầu hóa.

Mục tiêu chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025

Mục tiêu trong giai đoạn này là 80% dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 4. Các dịch vụ được cung cấp trên nhiều phương tiện khác nhau, gồm cả các thiết bị di động. Có 90% hồ sơ các công việc cấp tỉnh, 80% hồ sơ thuộc cấp huyện, 60% hồ sơ thuộc cấp xã được giải quyết trên môi trường internet. Ngoại trừ các hồ sơ công việc thuộc bí mật nhà nước. 100% chế độ báo cáo, báo cao định kỳ, thống kê thuộc sự điều hành của Chính phủ được kết nối, tích hợp và chia sẻ trên Hệ thống thông tin báo cáo chính phủ.

 100% cơ sở dữ liệu quốc gia bao gồm CSDL về dân cư, đất đai, tài chính, bảo hiểm, doanh nghiệp tham gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Các CSDL này được hoàn thành kết nối và chia sẻ trên toàn quốc.

Từng bước mở dữ liệu của các cơ quan nhà nước để cung cấp dịch vụ công kịp thời. Khai báo một lần, sử dụng trọn đời. 50% các hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước thực hiện qua môi trường số, hệ thống thông tin quản lý.

Việt Nam thuộc 70 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Nền kinh tế số chiếm 20% trên tổng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong các ngành đạt ít nhất 10%. Năng suất lao động số mỗi năm đạt ít nhất 7%.

Việt Nam cũng thuộc 50 nước đi đầu về CNTT (IDI). Việt Nam thuộc 50 nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất (GCI). Việt Nam thuộc 35 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII).

Hệ thống mạng, cáp quang phủ rộng trên 100% xã, 80% hộ gia đình cả nước. Toàn quốc được phổ cập mạng 4G, 5G, điện thoại thông minh. Tỷ lệ thanh toán điện tử trong dân chúng đạt trên 50%. Nước ta cũng thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về chỉ số an toàn, an ninh mạng (GCI)

 

Mục tiêu chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030

100% các dịch vụ công trực tuyến đều ở mức độ 4. Được cung cấp trên nhiều phương tiện, bao gồm thiết bị di động. 100% hồ sơ công việc cấp bộ, tỉnh, 90% hồ sơ thuộc cấp huyện, 70% hồ sơ thuộc cấp xã sẽ được giải quyết trên môi trường mạng. Trừ những hồ sơ thuộc bí mật nhà nước. Hình thành nền tảng dữ liệu số cho các ngành kinh tế trọng điểm. Thực hiện dựa trên dữ liệu của cơ quan nhà nước và hạ tầng IoT.

Các thủ tục hành chính giảm 30%. Mở kho dữ liệu số cho các tổ chức, doanh nghiệp. Các hoạt động sáng tạo tăng 30%. 70% các hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước thực hiện qua môi trường số và hệ thống thông tin quản lý.

Việt Nam thuộc 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử (EGDI). Nền kinh tế số chiếm 30% trên tổng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong các ngành đạt ít nhất 20%. Năng suất lao động số mỗi năm đạt ít nhất 8%.

Việt Nam cũng thuộc 30 nước đi đầu về CNTT (IDI). Việt Nam thuộc 30 nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất (GCI). Việt Nam thuộc 30 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII).

Hệ thống mạng, cáp quang được phổ cập rộng khắp. Toàn quốc được phổ cập mạng 5G, điện thoại thông minh. Tỷ lệ thanh toán điện tử trong dân chúng đạt trên 80%. Nước ta cũng thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về chỉ số an toàn, an ninh mạng (GCI), đây cũng chính là mục tiêu của chuyển đổi số Quốc gia đến năm 2030 của Việt Nam./.

Sưu tầm & biên tập

CCVH – XH

Lê Văn Sơn